Mặt trận châu Âu và Bắc Phi Lịch_sử_quân_sự_Hoa_Kỳ_trong_Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai

Ngày 11 tháng 12 năm 1941, Adolf HitlerĐức Quốc xã tuyên chiến với Hoa Kỳ cùng ngày Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức và Ý.[10]

Chiến lược châu Âu trước tiên

Đức Quốc xã thôn tính các nước.

Chiến lược lớn được đồng minh lập ra là đánh bại Đức Quốc xã và đồng minh của Đức tại châu Âu trước và rồi sau đó sẽ chuyển hướng chống Nhật Bản tại Thái Bình Dương. Lý do là vì các thủ đô của đồng minh là LondonMoskva có thể bị đe dọa trực tiếp từ Đức nhưng không có một thủ đô chính nào của đồng minh bị Nhật Bản đe dọa.

Chiến dịch Torch

Bài chi tiết: Chiến dịch Torch

Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến ở phía tây bằng Chiến dịch Torch ngày 8 tháng 11 năm 1942 sau khi đồng minh Liên Xô của họ mở một mặt trận thứ hai chống Đức ở chiến trường phía Đông. Tướng Dwight Eisenhower chỉ huy cuộc tấn công vào Bắc Phi và Trung tướng George Patton đánh vào Casablanca.

Chiến thắng của đồng minh tại Bắc Phi

Bài chi tiết: Chiến dịch Bắc Phi

Hoa Kỳ không nhập cuộc một cách suôn sẻ khi đối đầu với Đức Quốc xã. Đầu năm 1943, Lục quân Hoa Kỳ chịu đựng một cuộc bại trận gần như là thảm hại tại Trận Đèo Kasserine vào tháng 2. Ban lãnh đạo cao cấp của đồng minh là những người bị quy cho trách nhiệm đối với cuộc thảm bại này vì có sự bất hòa nội bộ giữa tướng Mỹ là Lloyd Fredendall và tướng Anh dẫn đến sự bất tín nhiệm và ít thông tin qua lại giữa hai phía làm cho việc khai triển thiếu hụt binh sĩ.[11] Tuy nhiên cuộc bại trận này có thể được xem là bước ngoặt chính vì Tướng Eisenhower thay thế Fredendall cùng với Tướng Patton.

Dần dần đồng minh chặn đứng được cuộc tiến công của Đức tại Tunisia và đến tháng 3 thì phản công. Đến giữa tháng tư, dưới quyền tư lệnh của tướng Anh là Bernard Montgomery, các lực lượng đồng minh tấn công phòng tuyến Mareth và phá vỡ phòng tuyến của phe Trục tại Bắc Âu. Ngày 13 tháng 4 năm 1943, lực lượng của phe Trục tại Bắc Phi đầu hàng, để lại 275.000 binh sĩ. Đồng minh tập trung lực lượng quay sang Sicilia và Ý.

Xâm chiếm Sicilia và Ý

Bật đá đầu tiên của đồng minh giải phóng châu Âu là, theo lời của Thủ tướng Anh Winston Churchill, "bụng dưới yếu ớt" của châu Âu nằm trên đảo Sicilia của Ý. Chiến dịch Husky vào thời điểm đó, được mở ngày 9 tháng 7 năm 1943, là chiến dịch đổ bộ lớn nhất chưa từng có trước đó. Chiến dịch thành công vào ngày 17 tháng 8 và đồng minh chiếm được quyền kiểm soát hòn đảo.

Sau khi chiến thắng của đồng minh tại Sicilia, thái độ của công chúng Ý bắt đầu chuyển đổi sang chống chiến tranh và chống lãnh tụ độc tài Ý là Benito Mussolini. Trong lúc Mussolini bị đảo chính thì đồng minh nhanh chóng tiến đánh Ý với hy vọng sự phản kháng của Ý yếu ớt. Các lực lượng đầu tiên của Mỹ đổ bộ lên bán đảo Ý vào tháng 9 năm 1943, và Ý đầu hàng ngày 8 tháng 9. Tuy nhiên lực lượng Đức tại Ý đã chuẩn bị sẵn sàng và giữ các vị trí phòng thủ. Khi mùa đông đến, đồng minh dần dần tạo được những bước tiến đáng kể chống lại phòng tuyến được phòng thủ chặt chẽ của Đức cho đến khi chiến thắng tại Monte Cassino. Rome rơi vào tay đồng minh ngày 4 tháng 6 năm 1944.

Ném bom chiến lược

Oanh tạc cơ B-17 đang bay

Tướng Eisenhower nói chuyện với các binh sĩ thuộc Sư đoàn Dù 101 vào chiều tối ngày 5 tháng 6 năm 1944

Binh sĩ Mỹ tiến lên Bãi biển Omaha

Binh sĩ và trang bị tiếp viện di chuyển vào đất liền từ Bãi biển Omaha

Vô số các đợt ném bom của Hoa Kỳ được thực hiện nhắm vào trái tim công nghiệp của Đức. Hoa Kỳ sử dụng loại oanh tạc cơ bay cao B-17 và thực hiện các đợt ném bom vào ban ngày với chủ đích là đánh chính xác mục tiêu. Vì không có đủ khu trục cơ bảo vệ nên các oanh tạc cơ phải bay trong đội hình dày đặc hình hộp để mỗi oanh tạc cơ có thể dùng hỏa lực súng máy bảo vệ từng khoảng không xung quanh. Tuy nhiên đội hình dày đặc khiến cho khó tránh được lưới lửa từ các khu trục cơ của Không quân Đức nên thương vong đối với các phi công và nhân sự phi hành của Mỹ là rất cao. Việc đưa vào sử dụng loại phi cơ đáng nể P-51 Mustang, là loại phi cơ có thể chứa đủ xăng để thực hiện chuyến bay hai chiều đến Đức, đã giúp giảm thiểu tổn thất sau đó trong cuộc chiến.

Chiến dịch Overlord

Bài chi tiết: Chiến dịch Overlord

Mặt trận thứ hai tại châu Âu mà Liên Xô đã từng thúc ép cuối cùng cũng được mở vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 khi phe Đồng minh tấn công bờ thành phòng thủ kiên cố của Đức mà được biết đến với cái tên Bờ thành Đại Tây Dương.Tư lệnh tối cao đồng minh, Tướng Dwight D. Eisenhower trì hoãn cuộc tấn công này vì thời tiết xấu nhưng cuối cùng thì cuộc tấn công đổ bộ lớn nhất trong lịch sử bắt đầu.

Sau các đợt ném bom kéo dài của Không lực Lục quân Hoa Kỳ trên bờ biển của Pháp, 225 binh sĩ Biệt kích Lục quân Hoa Kỳ trèo lên vách đá tại Pointe du Hoc dưới hỏa lực dữ dội của kẻ thù và phá hủy các ụ súng của Đức mà có thể là mối đe dọa đối với các cuộc đổ bộ từ biển vào.

Cũng trước khi có cuộc tấn công đổ bộ lớn, Sư đoàn Dù 82 và Sư đoàn Dù 101 được thả xuống phía sau các bãi biển ở phía bên trong nước Pháp bị Đức chiếm đóng nhằm bảo vệ các cuộc đổ bộ sắp tới. Nhiều binh sĩ dù đã không được thả ngay đúng vị trí đã định và bị phân tán khắp nơi trong vùng Normandy.

Khi các binh sĩ dù đánh mở đường qua các hàng rào cây bụi thì cuộc đổ bộ chính từ biển vào cũng bắt đầu. Lực lượng Mỹ tiến vào bờ tại các bãi biển có mật danh 'Omaha' và 'Utah'. Các xuồng đổ bộ hướng vào bãi biển Utah cũng như nhiều đơn vị khác bị lạc hướng và vào đến bờ cách mục tiêu khoảng 2 cây số. Sư đoàn Bộ binh số 4 Hoa Kỳ gặp sự chống trả yếu ớt trong suốt thời gian đổ bộ và đến trưa thì hợp mặt với các binh sĩ dù đang đánh mở đường về phía bờ biển.

Tuy nhiên, tại bãi biển Omaha, quân Đức đã chuẩn bị trước với các bãi mìn, các trụ sắt có nhiều tua Czech hedgehog và hệ thống khung sắt Belgian Gate chống tăng vì họ đã lường trước được cuộc tiến công của đồng minh ở đây. Trước cuộc đổ bộ, Sư đoàn 714 ít kinh nghiệm của Đức được giao nhiệm vụ phòng thủ bờ biển này. Tuy nhiên, Sư đoàn 352 giàu kinh nghiệm và được huấn luyện cao đã di chuyển đến đây vài ngày trước cuộc đổ bộ. Kết quả là các binh sĩ thuộc Sư đoàn Bộ binh số 29 và Sư đoàn Bộ binh số 1 của Hoa Kỳ bị rơi vào hỏa lực mạnh của kẻ thù ngay sau khi họ rời các xuồng đổ bộ. Trong một vài trường hợp, toàn bộ xuồng đổ bộ với đầy binh sĩ Mỹ bị quân phòng vệ Đức trên vị trí tốt bắn nát. Khi thiệt hại nhân mạng lên cao, các binh sĩ Mỹ tự hợp tạo thành các đơn vị tùy cơ ứng biến và tiến lên phía bên trong đất liền.

Các đơn vị nhỏ lúc này đánh mở đường qua các bãi mìn nằm giữa các công sự súng máy của Đức. Sau khi vượt qua, họ liền tấn công các công sự này từ phía sau để mở đường cho nhiều binh sĩ khác từ biển tiến vào bờ an toàn.

Vào cuối ngày, Hoa Kỳ tổn thất trên 6.000 binh sĩ trong đó có cả chết và bị thương.

Chiến dịch Rắn đuôi chuông

Sau cuộc tấn công đổ bộ, các lực lượng đồng minh vẫn bị cầm chân tại Normandy trong một khoảng thời gian, tiến quân rất chậm so với dự tính vì các trận cận chiến bộ binh trong vùng có rất nhiều bờ rào cây bụi. Tuy nhiên, với Chiến dịch Rắn đuôi chuông (Cobra) mở ngày 24 tháng 7 năm với đa số binh sĩ là người Mỹ, quân Đồng minh thành công phá vỡ phòng tuyến của Đức và tràn khắp nước Pháp bằng cách sư đoàn thiết giáp di chuyển nhanh. Sự kiện này dẫn đến một cuộc bại trận lớn của Đức với 400.000 quân bị bao vây tại thị trấn Falaise và Paris bị tái chiếm ngày 25 tháng 8.

Cùng thời gian với chiến thắng Normandie, một bộ phận quân đội Mỹ đã phối hợp với Tập đoàn quân số 1 (Pháp) thực hiện Chiến dịch Dragoon đổ bộ lên miền Nam Pháp. Cuộc đổ bộ này đạt được thắng lợi rất lớn, lực lượng Mỹ-Pháp nhanh chóng đánh chiếm bờ biển miền Nam Pháp, đập tan các đợt phản kích của Tập đoàn quân số 19 (Đức), sau đó giải phóng Marseilles, ToulonMontélimar. Quân Đức bị thiệt hại hết sức nặng nề (gồm 7.000 người chết, 20.000 bị thương và khoảng 130.000 bị bắt), phải co cụm về chống giữ vùng núi Vosges.

Chiến dịch Market Garden

Binh sĩ dù được thả xuống Hà Lan.

Chiến dịch chính kế tiếp của đồng minh xảy ra vào ngày 17 tháng 9. Kế hoạch này là của Tướng Anh Bernard Montgomery và mục tiêu chính của nó là chiếm năm cây cầu chiến lược tại Hà Lan. Vì những thành công của họ tại Normandy nên Đồng minh lạc quan rằng một cuộc tấn công vào đất Hà Lan bị Đức chiếm đóng sẽ mở ra một con đường bên kia sông Rhine và dẫn vào bình nguyên phía bắc của Đức. Một thông lộ như thế sẽ tạo điều kiện cho lực lượng đồng minh đột phá về hướng bắc và tiến về Đan Mạch và sau đó là Berlin.

Kế hoạch này gồm có việc thả xuống hai sư đoàn dù vào ban ngày là Sư đoàn Dù số 82 và Sư đoàn Dù số 101 của Hoa Kỳ. Sư đoàn 101 có trách nhiệm chiếm các cây cầu ở Eindhoven và Sư đoàn 82 chiếm các cây cầu ở GraveNijmegen. Sau khi các cây cầu bị chiếm được thì các lực lượng bộ binh, được biết là Quân đoàn XXX hay "Garden", sẽ hành quân lên phía trên cùng một con đường và nhập cuộc với các binh sĩ dù.

Chiến dịch này thất bại vì Đồng minh đã không chiếm được cây cầu xa nhất về phía bắc tại Arnhem. Ở đó, Sư đoàn Dù số 1 của Anh đã được thả xuống đó để chiếm giữ các cây cầu nhưng ngay sau khi chạm đất thì họ khám phá ra rằng một đơn vị SS Panzer giàu kinh nghiệm tác chiến của Đức đang đóng quân tại thị trấn. Các binh sĩ dù chỉ được trang bị nhẹ không có vũ khí chống tăng và nhanh chóng bị thất thế. Việc chậm trễ tăng cường viện binh cho các binh sĩ của Sư đoàn Dù số 1 đang cố chiếm giữ cây cầu tại Arnhem như một phần kế hoạch giúp quân bình Cụm tập đoàn quân số 6 Hoa Kỳ cũng như Quân đoàn cơ giới XXX đồng nghĩa với việc quân Đức đã có thể phá hỏng toàn bộ chiến dịch này. Cuối cùng, bản chất đầy tham vọng của chiến dịch, cục diện chiến tranh hay biến đổi, và thiếu thông tin tình báo chính xác về phía đồng minh (cũng như việc phòng thủ gan dạ của quân Đức) có thể được coi là những hệ lụy thất bại chủ yếu của chiến dịch. Chiến dịch này cũng đánh dấu thời điểm cuối cùng cả hai sư đoàn dù của Hoa Kỳ là Sư đoàn Dù 82 và Sư đoàn Dù 101 không còn được thả xuống để chiến đấu trong cuộc chiến.

Trận Ardennes

Cái "bulge" (chỗ u phồng) được tạo ra bởi cuộc tiến công của Đức.

Không thể tiến công về phía bắc vào Hà Lan nên Đồng minh tại Tây Âu bắt buộc phải tìm cách khác tiến vào Đức. Tuy nhiên vào tháng 12 năm 1944, quân Đức tung một cuộc tấn công quy mô lớn vào khu vực rừng Ardennes với hy vọng chọc thủng một lỗ phòng tuyến của đồng minh và chiếm giữ thành phố của Antwerp của Bỉ. Quân Đồng Minh do lo tấn công, quên phòng bị nên bị choáng ngợp và quân Đức đã khoét một lỗ hổng lớn vào phòng tuyến của Mỹ-Anh. Trong những giai đoạn ban đầu của cuộc tấn công, các tù binh Mỹ thuộc Tiểu đoàn Quan sát Trận tuyến Pháo binh số 285 bị hành quyết trong vụ thảm sát Malmedy bởi lực lượng SSFallschirmjäger của Đức.

Khi Đức tiến công về phía tây, Tướng Eisenhower ra lệnh cho Sư đoàn Dù 101 và các đơn vị thuộc Sư đoàn Cơ giới số 10 Hoa Kỳ vào thị trấn Bastogne để chuẩn bị phòng vệ. Thị trấn nhanh chóng bị bao vây và bị cắt hết liên lạc với bên ngoài. Thời tiết mùa đông làm chậm trễ việc không yểm của đồng minh trong khi đó các binh sĩ phòng thủ bị bao vây bởi số lượng quân Đức đông hơn và đồ tiếp liệu của họ cạn dần. Khi bị quân Đức ra lệnh đầu hàng, tướng Anthony McAuliffe, quyền tư lệnh Sư đoàn 101 trả lời rằng "Đồ đầu đất!" đã góp phần vào việc phòng thủ gan lì của người Mỹ.[12]Ngày 19 tháng 12, tướng Patton nói với Eisenhower rằng ông có thể đưa quân của ông vào Bastogne trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Patton lúc đó xoay chuyển quân của ông, vào lúc đó đang ở mặt trận tại Luxembourg, về phía bắc đánh chọc qua Bastogne. Lực lượng thiết giáp của Patton tiến công về phía bắc và đến ngày 26 tháng 12 thì có mặt tại Bastogne, kết thúc cuộc bao vây của quân Đức một cách hữu hiệu. Cho đến khi trận này kết thúc, con số binh sĩ Mỹ phục vụ trong trận này nhiều hơn bất cứ một cuộc đụng trận nào trong lịch sử Mỹ.[13]

Đầu năm 1945, Đức huy động các Tập đoàn quân số 1, 19 mở Chiến dịch Nordwind đánh vào Tập đoàn quân số 7 (Mỹ) và Tập đoàn quân số 1 (Pháp) ở Alsace. Quân Đồng Minh mất một số địa bàn của Alsace và bị tổn thất nặng nề, nhưng ngăn được đà tiến công của địch vào thủ phủ Strasbourg. Sau đó liên quân Mỹ-Pháp chuyển sang phản công, tiêu diệt Tâpk đoàn quan số 19 (Đức) tại khu vực Colmar và giải phóng hoàn toàn nước Pháp.

Cuộc đua về Berlin

Sau khi Đức bại trận tại Alsace và Ardennes, Đồng minh tiến công về sông Rhine và vào trung tâm nước Đức. Sau khi chiếm được cây cầu Ludendorff ở Remagen, Đồng minh vượt sông Rhine tháng 3 năm 1945. Quân Mỹ lúc đó thực hiện chiến thuật gọng kìm, đặt Lục quân số 9 Hoa Kỳ ở phía bắc và Lục quân số 1 Hoa Kỳ ở phía nam. Khi Đồng minh khép kín gọng kìm, 300.000 quân Đức bị bắt sống tại Ruhr. Quân Mỹ lại quay hướng sang phía đông và hội ngộ với quân Xô Viết tại sông Elbe vào tháng 4. Quân Đức tại Berlin đầu hàng quân Xô Viết ngày 2 tháng 5 năm 1945.

Chiến tranh tại châu Âu chính thức kết thúc trong Ngày Chiến thắng tại châu Âu, 8 tháng 5 năm 1945.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_quân_sự_Hoa_Kỳ_trong_Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai http://www.findarticles.com/p/articles/mi_qa3723/i... http://www.time.com/time/printout/0,8816,791211,00... http://www.u-s-history.com/pages/h1601.html http://www.u-s-history.com/pages/h1661.html http://www.u-s-history.com/pages/h1671.html http://www.law.ou.edu/ushistory/germwar.shtml http://www.wpunj.edu/irt/courses/hist365/declarewa... http://www.world-war-2.info/casualties/ http://www.army.mil/cmh-pg/books/wwii/100-11/100-1... http://www.army.mil/cmh/books/wwii/7-8/7-8_cont.ht...